Đặc điểm XH nội soi khi điều trị Rivaroxaban

Home / Tin tức - Kháng đông / Đặc điểm XH nội soi khi điều trị Rivaroxaban

Điểm báo CardioSource (Geoffrey D. Barnes, MD)

Tựa đề: Đặc Điểm Của Xuất Huyết Nội Sọ Khi Điều Trị Với Rivaroxaban: So Sánh Với Xuất Huyết Nội Sọ Ở Bệnh Nhân Dùng Warfarin
Ngày đăng: 
5/8/2014
Tác giả: 
Hagii J, Tomita H, Metoki N, và cs.
Nguồn: 
Stroke 2014;Jul 31:[Epub ahead of print].

Câu hỏi nghiên cứu:

Biến có xuất huyết nội sọ ở bệnh nhân điều trị với rivaroxaban có đặc điểm gì so với warfarin?

Phương pháp:

Từ 2011 đến 2013, 585 bệnh nhân nhập viện vào một trung tâm đột quị được kiểm tra bị xuất huyết nội sọ. Các bệnh nhân được phân loại dựa trên đang dùng một kháng đông và loại kháng đông (rivaroxaban so với warfarin) ở thời điểm nhập viện do bị xuất huyết nội sọ. Đặc điểm lâm sàng, các hình ảnh học thần kinh và kết cục chức năng của 2 nhóm kháng đông được so sánh với nhau.

Kết quả nghiên cứu:

Trong số 585 bệnh nhân nhập viện vì xuất huyết nội sọ, 5 bệnh nhân (1%) được điều trị với rivaroxaban và 56 (10%) được điều trị với warfarin ở thời điểm bị biến cố xuất huyết nội sọ. Các bệnh nhân có nguy cơ cao bị xuất huyết nặng tương đương, được ước tính theo thang điểm HAS-BLED (điểm trung bình của nhóm rivaroxaban là 3 và của nhóm warfarin là 4, p = 0,11). Tăng kích thước khối máu tụ không xảy ra ở nhóm rivaroxaban nhưng xảy ra ở 10 (21%) bệnh nhân dùng warfarin. Thể tích khối máu tụ nhỏ hơn ở nhóm rivaroxaban so với nhóm warfarin (4 so với 11 ml, p = 0,03). Các bệnh nhân dùng rivaroxaban có điểm số Rankin Scale thấp hơn lúc xuất viện so với các bệnh nhân dùng warfarin, cùng với sự khác biệt điểm số Rankin Scale giữa lúc nhập viện và xuất viện nhỏ hơn (1 so với 3, p = 0,047). Tử vong trong nằm viện không có ở nhóm rivaroxaban nhưng xảy ra ở 10 (18%) bệnh nhân nhóm warfarin.

Kết luận:

Các tác giả kết luận rằng xuất huyết nội so liên quan với rivaroxaban xảy ra ở bệnh nhân có nguy cơ chảy máu cao nhưng thể tích khối máu tụ nhỏ hơn, ít gia tăng kích thước khối máu tụ và tình trạng chức năng tốt hơn so với nhóm xuất huyết nội sọ liên quan warfarin.

Bàn luận:

Nghiên cứu loạt ca đơn trung tâm này làm nổi bật sự khác biệt quan trọng ở những bệnh nhân bị xuất huyết nội sọ trong khi đang điều trị với kháng đông. Mặc dù các bệnh nhân có nguy cơ xuất huyết tương đương (ước tính bằng điểm số HAS-BLED), kết cục có lợi thiên về nhóm rivaroxaban so với nhóm warfarin. Trong khi cần phải cẩn trọng khi rút ra kết luận từ kinh nghiệm của một trung tâm với số biến cố nhỏ, báo cáo này cho thông tin khuyến khích ở chừng mực nào đó các bệnh nhân và các nhà thực hành vốn ngán ngẫm về nguy cơ xuất huyết nội sọ và kết cục lâm sàng khi dùng một thuốc kháng đông “không thể trung hòa” như rivaroxaban. Cần thêm kinh nghiệm lâm sàng để giúp thông tin thêm về điểm quan trọng này khi ra quyết định điều trị kháng đông.